Vai Trò Của Thừa Phát Lại Trong Việc Thu Hồi Nợ Xấu Ngân Hàng
Theo quy định pháp luật, TPL của văn phòng có thẩm quyền như Chấp hành viên Chi cục THADS cấp quận, huyện; Trưởng văn phòng TPL được pháp luật giao có thẩm quyền như Chi cục trưởng - Chi cục THADS cấp quận, huyện. https://thuhoino.webflow.io/posts/cong-ty-doi-no-thue vì vậy, Trưởng văn phòng TPL được toàn quyền, chủ động ký hợp đồng với ngân hàng và ra quyết định thi hành án đối với các bản án thuộc phạm vi quyền hạn của mình và tổ chức thi hành án theo đơn yêu cầu của phía ngân hàng. Đồng thời, TPL còn có thẩm quyền lập vi bằng. Do đó, vi bằng là chứng cứ phục vụ việc điều tra, xét xử, giải quyết tranh chấp, giao kết hợp đồng, thỏa thuận, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi về kinh tế, chính trị, quyền nhân thân của người/tổ chức yêu cầu và người/tổ chức tham gia việc lập vi bằng.
Trong trường hợp họ quên trả nợ, chỉ cần nhắc nhở họ về thời hạn thanh toán một cách lịch thiệp hơn, có thể họ sẽ ngay lập tức thanh toán khoản vay của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không dành thời gian để trò chuyện với từng người vay cụ thể, bạn sẽ không nắm bắt được tình hình chính xác và có cách tiếp cận đúng đắn, phù hợp nhất. Một số người vay không thanh toán đúng hạn vì họ cố tình né tránh việc tới trực tiếp các chi nhánh giao dịch - có thể vì e ngại tiếp xúc trong tình hình dịch bệnh. Đối với những trường hợp này, chỉ cần đưa ra các giải pháp thanh toán trực tiếp thuận tiện nhất cho họ. Việc liên hệ người vay đang gặp khó khăn về tài chính cần được thực hiện càng sớm càng tốt, vì nếu thời gian kéo dài càng lâu khoản nợ của họ sẽ ngày càng tăng lên do lãi suất và các khoản phí phạt.
Trong khía cạnh này chúng ta hiểu theo nghĩa khi một tổ chức doanh nghiệp đã xuất hàng hóa thành phẩm cho khách hàng đã có hóa đơn chứng từ kê khai thuế. Tuy nhiên khách hàng vẫn chưa thanh toán hoặc việc thanh toán mới thực hiện được một phần. Trong trường hợp này bên tổ chức hay doanh nghiệp cần phải có chính sách công nợ khách hàng rõ ràng để thu hồi được công nợ hiệu quả. Đây là các khoản nợ phải trả cho người bán sau khi đã nhận được các vật tư, công cụ, hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình kinh doanh nhưng người mua vẫn chưa thanh toán. Bên cạnh các trường hợp trên thì khi đề cập đến công nợ là gì chúng ta cùng không được bỏ qua các khoản phải thu phải trả khác như tạm ứng, ký cược, ký quỹ, các tài sản thiếu chưa có rõ nguyên nhân, các vật tư bị mất mất mát hỏng hóc,…
Nhiều địa phương còn thiếu tổ chức thẩm định giá hoặc năng lực của tổ chức thẩm định giá còn yếu, dẫn đến chất lượng thẩm định giá chưa cao; thậm chí có khả năng xảy ra tình trạng thiếu minh bạch, câu kết giữa các bên liên quan. Bốn là, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự, các nghiệp vụ phái sinh cho khoản nợ xấu (nhưng chứng khoán hóa) chưa có, dẫn đến thiếu nhà đầu tư có năng lực, thiếu tính thanh khoản của các khoản nợ; làm giảm tính hấp dẫn, giá trị và nguồn lực để xử lý các khoản nợ này; khiến quá trình mua - bán nợ theo giá thị trường càng khó khăn. Những vướng mắc nêu trên chỉ những vấn đề nổi cộm nhất trong quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD nói chung và triển khai NQ 42 nói riêng.
Trong những năm qua, tại Việt Nam, nhu cầu vay vốn của người dân nhằm phục vụ nhu cầu kinh doanh cũng như cho các nhu cầu cá nhân khác ngày một tăng lên. Hoạt động cho vay tín dụng của các công ty tài chính cũng phát triển, góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế, đẩy lùi vấn nạn “tín dụng đen” ở nước ta. Tuy nhiên, từ 2 năm trở lại đây, dịch COVID-19 bùng phát và kéo dài khiến nhiềudoanh nghiệp, người lao động lao đao vì dịch bệnh, ngành tài chính tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Lợi nhuận của các công ty tài chính giảm mạnh, mà trong đó nguyên nhân chính là do nợ xấu tăng cao, việc thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn. Theo Luật sư Trần Xuân Tiền, xuất phát từ đặc thù của hoạt động cho vay tài chính là thủ tục vay khá đơn giản, người vay không cần tài sản bảo đảm, cơ chế quản lý về hoạt động cho vay còn chưa rõ ràng nên dẫn đến nhiều hệ luỵ, khó khăn trong quá trình thu hồi các khoản vay.